PHẦN I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Luật Doanh nghiệp là một trong những văn bản quy phạm pháp luật nền tảng của hoạt động kinh doanh, điều chỉnh hầu hết các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp mới được sửa đổi và thông qua chính là bước đi nhằm mở rộng hơn quyền tự do kinh doanh trên thực tế của các doanh nghiệp, xây dựng nguyên tắc cốt lõi để Việt Nam tiệm cận hơn với nền kinh tế thị trường quốc tế, tạo điều kiện pháp lý vững chắc cho việc hội nhập.
Nhìn chung, sự thay đổi của pháp luật doanh nghiệp chính là một bước tất yếu cho sự vươn lên và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam, khẳng định vị thế của nền kinh tế Việt Nam trên thị trường quốc tế. Và để đạt được mục tiêu to lớn này, có thể thấy, sự thay đổi của các quy phạm pháp luật tại Luật Doanh nghiệp năm 2020 (“LDN 2020“) mang hơi hướm nâng cao quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Điều này thể hiện thông qua việc LDN 2020 đã quy định về việc có thể ghi nhận thêm nhiều vấn đề để các bên có thể thỏa thuận trong điều lệ công ty nhằm đề cao quyền tự quyết của các bên tham gia vào hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, việc bảo vệ quyền của các cổ cũng được chú trọng hơn khi LDN 2020 mở rộng quyền và giảm thiểu số cổ phiếu bắt buộc phải sở hữu của nhóm cổ đông lớn. Ngoài ra, một điều đáng lưu ý tại LDN 2020 đó chính là việc đề cập khá rõ ràng, cụ thể về “trách nhiệm giải trình” của người quản lý trong công ty cổ phần và đề cao nghĩa vụ cẩn trọng, trung thành của người quản lý doanh nghiệp. Đây chính là sự ghi nhận chính thức các quy định về quản trị công ty nhằm ngăn ngừa những xung đột lợi ích trong công ty tiềm ẩn từ hoạt động của những người quản lý; đồng thời, thể hiện sự quan quan tâm đặc biệt đến hoạt động phòng, chống các giao dịch tư lợi nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến hoạt động quản trị công ty.
Tại các phần tiếp theo của bài viết này sẽ phân tích sâu hơn những vấn đề đã đề cập và đánh giá, nhằm cung cấp cho Quý khách hàng cái nhìn tổng quan về những thay đổi của LDN 2020 vừa mới ban hành, cũng như những hệ quả pháp lý tích cực từ những đổi mới này mang lại cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
PHẦN II. CÁC THAY ĐỔI VỀ THỦ TỤC
2.1 Bổ sung hồ sơ đăng ký công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần
So với LDN 2014, LDN 2020 quy định hồ sơ đăng ký thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn (”công ty TNHH”) và công ty cổ phần (“CTCP”) phải có bản sao giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với người đại diện theo pháp luật (“NĐDTPL”) như chứng minh nhân dân, căn cước công dân hoặc hộ chiếu. Trường hợp NĐDTPL là cá nhân nước ngoài thì phải cung cấp bản sao các giấy tờ pháp lý có giá trị tương đương do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp.
Theo đó, đây chính là quy định được bổ sung nhằm tăng cường sự quản lý của cơ quan nhà nước đối với việc thành lập doanh nghiệp, hạn chế trường hợp doanh nghiệp được thành lập nhưng không có NĐDTPL trên thực tế; đồng thời, việc bổ sung quy định này đã phần nào hoàn thiện được chế định NĐDTPL của doanh nghiệp so với LDN hiện hành.
2.2 Bãi bỏ một số thủ tục trong đăng ký thành lập doanh nghiệp
Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp có thể coi như là bước đầu tiên cho việc gia nhập vào thị trường kinh doanh. Và nhằm đơn giản hóa thủ tục này, LDN 2020 đã bãi bỏ một số thủ tục không thực sự cần thiết trong thủ tục đăng ký doanh nghiệp như: (i) đăng ký mẫu dấu trước khi sử dụng[1]; (ii) báo cáo thay đổi thông tin người quản lý doanh nghiệp[2]; (iii) gửi thông tin cho cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính khi thành lập chi nhánh, đặt địa điểm kinh doanh mới[3]; và (iv) nộp Điều lệ doanh nghiệp khi đăng ký thành lập công ty hợp danh (“CTHD”), công ty TNHH, CTCP[4]. Đáng chú ý nhất chính là việc bãi bỏ thủ tục đăng ký mẫu dấu trước khi dùng. Hiện nay, trước khi sử dụng mẫu dấu, doanh nghiệp có nghĩa vụ phải thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh để được đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia[5]. Tuy nhiên, theo LDN 2020, hình thức, nội dung và số lượng con dấu của doanh nghiệp sẽ hoàn toàn do các doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị khác của doanh nghiệp tự quyết định và không cần phải thông báo trước khi dùng. Quy định này đã tiệm cận hơn với thông lệ quốc tế về việc cho phép doanh nghiệp được tự do trong việc lựa chọn và quyết định có sử dụng con dấu doanh nghiệp hay không. Mặc dù LDN 2020 vẫn chưa thực sự bỏ yêu cầu về con dấu của doanh nghiệp và trên thực tế hầu hết các giao dịch, hoạt động của doanh nghiệp đều cần đến con dấu, nhưng có thể thấy, đây chính là điểm “mở” đối với doanh nghiệp, giảm bớt thủ tục hành chính đã phần nào giúp doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và sử dụng hiệu quả con dấu của mình.
Bên cạnh đó, việc bãi bỏ thủ tục báo cáo thay đổi thông tin người quản lý doanh nghiệp cũng là một thay đổi đáng kể. Theo LDN 2014, khi có sự thay đổi thông tin của thành viên HĐQT đối với CTCP, thành viên Ban kiểm soát hoặc Kiểm soát viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc thì doanh nghiệp có nghĩa vụ phải báo cáo cho Cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn năm (05) ngày kể từ khi có thay đổi[6]. Mặc dù trên thực tế, việc thông báo về thay đổi người quản lý doanh nghiệp nhằm mục đích công khai, minh bạch hóa giao dịch với bên thứ ba nhưng kể từ khi LDN 2020 có hiệu lực thì quy định trên được bãi bỏ. Đây chính là sự gỡ bỏ một vướng mắc lớn đối với các doanh nghiệp do tình hình kinh doanh hoặc do đặc thù tính chất công việc nên phải thay đổi người quản lý thường xuyên. Đồng thời, thay đổi này vẫn đảm bảo được sự quản lý của nhà nước và lợi ích của các bên trong giao dịch vì khi thực hiện giao dịch, NĐDTPL sẽ nhân danh công ty thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp và chính họ sẽ chịu trách nhiệm trước công ty; đồng thời, các chức danh quản lý của doanh nghiệp đều đã được đăng ký thay đổi và ghi nhận tại Cơ quan đăng ký kinh doanh.
Nhìn chung, việc LDN 2020 bãi bỏ các thủ tục nêu trên thể hiện nỗ lực của nhà nước trong việc giảm thời gian và chi phí thực hiện các thủ tục cho doanh nghiệp, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho “sân chơi” của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
2.3 Rút ngắn thời gian thông báo trước khi tạm ngừng kinh doanh
So với LDN 2014, LDN 2020 đã rút ngắn thời gian doanh nghiệp thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh trước khi tạm ngừng kinh doanh từ mười lăm (15) ngày xuống còn ba (03) ngày. Việc thay đổi này nhằm giúp các doanh nghiệp có thể nhanh chóng tiến hành tạm ngưng kinh doanh khi gặp những sự cố, sự việc nằm ngoài dự kiến như dịch bệnh, thiên tai, cháy nổ, người quản lý hoặc NĐDTPL mất tích, v.v.
2.4 Loại trừ trường hợp giải thể doanh nghiệp do bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (“GCNĐKDN”)
Điểm g khoản 1 Điều 125 Luật Quản lý thuế 2019 quy định, việc thu hồi GCNĐKDN là một biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế và theo LDN hiện hành, trong trường hợp trên, doanh nghiệp sẽ bị giải thể[7]. Tuy nhiên, quy định này là hoàn toàn bất lợi cho doanh nghiệp bởi biện pháp cưỡng chế sẽ chấm dứt hiệu lực kể từ khi tiền thuế nợ được nộp đủ vào ngân sách nhà nước nhưng doanh nghiệp vẫn lâm vào tình trạng phải giải thể. Do đó, LDN 2020 đã loại trừ trường hợp giải thể doanh nghiệp do bị thu hồi GCNĐKDN do vi phạm hành chính về quản lý thuế nhằm đảm bảo tính đồng bộ với quy định của pháp luật về quản lý thuế, đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp.
2.5 Tên địa điểm kinh doanh phải bao gồm tên doanh nghiệp
LDN 2014 quy định tên chi nhánh và văn phòng đại diện phải mang tên doanh nghiệp kèm theo cụm từ “Chi nhánh”, “Văn phòng đại diện” nhưng không áp dụng đối với các địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, kể từ khi LDN 2020 có hiệu lực, tương tự như chi nhánh và văn phòng đại diện, tên địa điểm kinh doanh phải kèm thêm tên doanh nghiệp và cụm từ “Địa điểm kinh doanh”.
2.6 Bổ sung một số đối tượng không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp
Ngoài sáu (06) nhóm đối tượng không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp được quy định tại khoản 2 Điều 16 LDN 2014, LDN 2020 bổ sung một số đối tượng không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp, gồm:
- Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
- Người đang bị tạm giam;
- Công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước; và
- Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự (“BLHS”).
Việc bổ sung thêm quy định trên nhằm phù hợp hóa các quy định của LDN với BLHS; đồng thời, đảm bảo được khả năng kinh doanh và hiệu quả kinh doanh trong môi trường doanh nghiệp.
2.7 Sửa đổi quy định về chào bán cổ phần và chào bán cổ phần riêng lẻ
LDN 2020 đã sửa đổi quy định về định nghĩa chào bán cổ phần, theo đó, chào bán cổ phần không chỉ là việc công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán mà còn bổ sung thêm vào định nghĩa chào bán cổ phần là việc công ty tăng thêm số lượng cổ phần, loại cổ phần được quyền chào bán để tăng vốn điều lệ. Tuy nhiên, việc thay đổi này vẫn chưa thực sự rõ ràng và có thể hiểu rằng, kể từ khi LDN 2020 có hiệu lực, hành động chấp thuận tăng loại cổ phần được quyền chào bán cũng đó thể được coi là chào bán cổ phần.
Bên cạnh đó, LDN 2020 đã loại bỏ nghĩa vụ thông báo cho Cơ quan đăng ký kinh doanh khi chào bán cổ phần riêng lẻ, giúp rút ngắn thời gian trong quá trình chào bán riêng lẻ. Ngoài ra, LDN 2020 cũng làm rõ quyền ưu tiên mua cổ phần của cổ đông hiện hữu khi công ty chào bán riêng lẻ, trừ trường hợp sáp nhập, hợp nhất công ty, vấn đề này không được quy định rõ trong các LDN trước đó.
2.8 Bổ sung trường hợp chấm dứt tư cách thành viên hợp danh
So với luật cũ, LDN 2020 bổ sung thêm hai (02) trường hợp thành viên hợp danh có thể bị chấm dứt tư cách thành viên khi: (1) có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; và (2) chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định của pháp luật.
Việc bổ sung này đã tháo gỡ những vướng mắc cho công ty và cho chính thành viên hợp danh này vì khi rơi vào những trường hợp trên thì họ không thể tham gia vào hoạt động điều hành của công ty. Do đó, việc chấm dứt tư cách của họ giúp đảm bảo được hoạt động kinh doanh hiệu quả của công ty.
PHẦN III. THAY ĐỔI TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP
3.1 Kéo dài thời hạn góp vốn bằng tài sản
Theo LDN 2014, các thành viên hoặc cổ đông sáng lập công ty được yêu cầu phải góp đủ vốn điều lệ lần đầu trong vòng chín mươi (90) ngày kể từ ngày công ty được cấp GCNĐKDN. Tuy nhiên, LDN 2020 đã cho phép kéo dài thời hạn nêu trên tương ứng với thời gian vận chuyển, nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản. Trong thời hạn này, thành viên hoặc các cổ đông sáng lập góp vốn lần đầu bằng tài sản vẫn có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết.
Có thể thấy, đây là một quy định có tính thiết thực cao, phù hợp với tình hình thực tế khi một thành viên/cổ đông sáng lập góp vốn bằng tài sản có quy định về chuyển quyền sở hữu. Mặc dù vậy, việc không đưa ra hạn chế về thời gian vận chuyển, nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản có thể dẫn tới việc thành viên/cổ đông sáng lập cố ý trì hoãn việc góp vốn bằng cách không thực hiện hoặc kéo dài thời gian chuyển quyền sở hữu nêu trên, ảnh hưởng đến quyền lợi của công ty và bất bình đẳng đối với các thành viên/cổ đông góp vốn bằng tiền mặt.
3.2 Mở rộng quyền của cổ đông phổ thông và bỏ quy định về thời hạn sở hữu cổ phần phổ thông
LDN 2005 và LDN 2014 đều quy định, nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu (06) tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền đề cử, ứng cử vào HĐQT, yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ bất thường, xem xét trích lục sổ biên bản và các Nghị quyết của ĐHĐCĐ, v.v. Tuy nhiên, theo LDN 2020, tỷ lệ sở hữu này đã giảm từ 10% xuống còn 5% và quy định về thời gian sở hữu liên tục từ sáu (06) tháng trở lên cũng được bãi bỏ.
Ngoài ra, LDN 2020 cũng đã bãi bỏ yêu cầu về thời gian sở hữu cổ phần phổ thông “liên tục trong 6 tháng” đối với trường hợp cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Việc sửa đổi các quy định trên giúp các cổ đông nhỏ được can thiệp vào hoạt động quản trị, điều hành sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, bảo vệ cổ đông thiểu số và nhóm cổ đông trong doanh nghiệp, góp phần tăng cường sự thu hút sửa đổi nhằm bảo vệ cổ đông thiểu số của doanh nghiệp, tăng nguồn thu hút các nguồn lực vào doanh nghiệp, đặc biệt là các nguồn vốn nhỏ lẻ từ các cá nhân; đồng thời, quy định này giúp đảm bảo việc thực hiện các quyền của cổ đông không làm ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của doanh nghiệp.
3.3 Bổ sung thêm nghĩa vụ bảo mật thông tin công ty của cổ đông
Theo LDN 2020, các cổ đông được cung cấp thông tin từ công ty theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty chỉ được sử dụng thông tin trên để thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, không được phát tán hoặc sao, gửi thông tin cho tổ chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, LDN 2020 vẫn còn bỏ ngỏ đối với vấn đề cung cấp các thông tin trên cho bên mua tiềm năng đối với số cổ phần mà cổ đông sở hữu.
Việc bổ sung quy định này tạo cơ sở pháp lý để buộc các cổ đông không được tiết lộ thông tin nội bộ, bí mật kinh doanh của công ty cho bên thứ ba, đặc biệt là những đối thủ cạnh tranh, đây chính là hành lang pháp lý để hạn chế việc các cổ đông lạm quyền, gây cản trở các hoạt động kinh doanh của công ty, gây thiệt hại cho các cổ đông khác hoặc công ty.
3.4 Giới hạn nhiệm kỳ của thành viên độc lập của HĐQT
LDN 2020 giới hạn nhiệm kỳ của thành viên độc lập trong HĐQT từ không hạn chế xuống còn không quá hai (02) nhiệm kỳ. Quy định này tạo điều kiện cho các cổ đông thiểu số tăng khả năng cử đại diện của mình tham gia vào trong HĐQT, là một trong những cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty.
3.5 Bổ sung thêm về nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý CTCP
LDN 2020 quy định, thành viên HĐQT, Giám đốc nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác để thực hiện công việc dưới mọi hình thức, trong phạm vi công việc của công ty, đều phải giải trình bản chất, nội dung của công việc đó trước HĐQT, Ban kiểm soát và chỉ được thực hiện khi được đa số thành viên còn lại của HĐQT chấp thuận; nếu thực hiện mà không khai báo hoặc không được sự chấp thuận của HĐQT thì tất cả thu nhập có được từ hoạt động đó đều thuộc về công ty. Đồng thời, việc quy định trách nhiệm giải trình này còn thể hiện sự làm chủ, tính chịu trách nhiệm với các hoạt động kinh doanh và mức độ minh bạch trong hoạt động quản trị doanh nghiệp, góp phần giúp nâng cao uy tín, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Nhằm đề cao nghĩa vụ cẩn trọng, trung thành của người quản lý doanh nghiệp, LDN 2020 cũng đã bổ sung thêm trách nhiệm của người quản lý, cụ thể là, Thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác có hành vi vi phạm trách nhiệm của người quản lý chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới đền bù lợi ích bị mất, trả lại lợi ích đã nhận và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho công ty và bên thứ ba.
Trên thực tế, nhiều trường hợp Tòa án tuyên người quản lý phải bồi thường thiệt hại cho công ty vì đã gây ra thiệt hại cho công ty. Ví dụ như người quản lý công ty sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam không có giấy phép lao động, người quản lý công ty sử dụng lái xe để tham gia kinh doanh vận tải mà không có hợp đồng lao động, v.v. gây thiệt hại cho công ty sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân, bồi thường thiệt hại cho công ty và bên thứ ba. Mặc dù vậy, các quy định về giải quyết tranh chấp giữa công ty và nhà quản lý trong LDN 2014 chưa thực sự rõ ràng đã gây ra nhiều lúng túng cho cơ quan xét xử. Do đó, LDN 2020 bổ sung quy định về trách nhiệm của người quản lý CTCP nêu trên đã tạo được cơ sở pháp lý để cổ đông hoặc các cổ đông có thể nhân danh công ty khởi kiện người quản lý công ty nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp công ty và của cá nhân cổ đông.
3.6 Thay đổi về ngưỡng biểu quyết trong CTCP
Theo LDN 2014, ngưỡng biểu quyết đa số tương đối trong CTCP là 51%. Tuy nhiên, tại LDN 2020, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 50%; đồng thời, đối với các vấn đề quan trọng của công ty như liên quan đến việc bán, vay tài sản, v.v. điều lệ công ty có thể điều chỉnh tăng hoặc giảm các tỷ lệ này nhằm đảm bảo quyền lợi của công ty và cân bằng lợi ích của tất cả các cổ đông. Thay đổi này cũng đã phần nào thể hiện sự đề cao quyền tự quyết của các bên tham gia vào hoạt động kinh doanh khi LDN 2020 quy định nhiều về vấn đề có thể ghi nhận thêm nhiều vấn đề để các bên có thể thỏa thuận trong điều lệ công ty.
Bên cạnh đó, LDN 2020 còn ghi nhận việc cổ đông ưu đãi có quyền biểu quyết đối với các thay đổi ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của chính mình. Cụ thể, đối với những nội dung làm “thay đổi bất lợi” quyền và nghĩa vụ của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi chỉ được thông qua nếu được số cổ đông ưu đãi cùng loại dự họp sở hữu từ 75% tổng số cổ phần ưu đãi loại đó trở lên tán thành hoặc được các cổ đông ưu đãi cùng loại sở hữu từ 75% tổng số cổ phần ưu đãi loại đó trở lên tán thành trong trường hợp thông qua nghị quyết dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản. Mặc dù cho đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa quy định và có hướng dẫn cụ thể như thế nào là một “thay đổi bất lợi” đối với cổ đông ưu đãi nhưng rõ ràng, việc bổ sung quy định trên chính là một bước ngoặt của LDN 2020, ghi nhận sự bình đẳng của mọi cổ đông trong công ty và khắc họa rõ nét sự tiệm cận các thông lệ tốt về quản trị công ty của LDN 2020.
3.7 Mở rộng khái niệm doanh nghiệp nhà nước
LDN 2020 đã sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước (“DNNN”) nhằm mở rộng cách hiểu về phạm vi của DNNN theo thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Theo đó, DNNN được tổ chức quản lý dưới hình thức công ty TNHH, CTCP bao gồm: (1) doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; và (2) doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
Thay đổi này là một trong những điểm nổi bật và đáng chú ý nhất của trong việc sửa đổi, bổ sung LDN nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhưng vẫn đảm bảo nhà nước nắm phần vốn góp hoặc cổ phần chi phối. Cụ thể, nhà nước nắm trên 50% vốn điều lệ đã bảo đảm: (1) quyền chi phối trực tiếp việc ra các quyết định thông thường yêu cầu tỷ lệ tán thành từ 50% trở lên; và (2) quyền chi phối gián tiếp việc ra các quyết định yêu cầu tỷ lệ tán thành từ 65% trở lên thông qua quyền phủ quyết của mình.
Có thể thấy định nghĩa mới về DNNN không loại bỏ hoàn toàn khái niệm doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ mà thay vào đó, quy định mới theo hướng phân chia các loại doanh nghiệp có sở hữu nhà nước theo mức độ sở hữu khác nhau, mỗi loại hình doanh nghiệp có quy định riêng biệt nhằm nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp, minh bạch trong kinh doanh, kiểu soát chặt chẽ hơn việc sử dụng vốn nhà nước trong các DNNN.
3.8 DNNN phải thành lập Ban kiểm soát
DNNN được điều chỉnh bởi LDN 2014 có thể có hoặc không có Ban kiểm soát (“BKS”) trong cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi LDN 2020 có hiệu lực, trong cơ cấu tổ chức quản lý của DNNN bắt buộc phải có BKS, cụ thể, căn cứ quy mô của công ty, cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định thành lập BKS có từ một (01) đến năm (05) Kiểm soát viên (“KSV”), trong đó có Trưởng BKS. Nhiệm kỳ KSV không quá năm (05) năm và có thể được bổ nhiệm lại nhưng không quá hai (02) nhiệm kỳ liên tục tại công ty đó. Trường hợp BKS chỉ có một (01) KSV thì KSV đó đồng thời là Trưởng BKS và phải đáp ứng tiêu chuẩn của Trưởng BKS.
Ngoài ra, về quyền lợi, nghĩa vụ và chế độ làm việc của BKS, LDN 2020 gần như kế thừa toàn bộ tinh thần của LDN 2014, chỉ mở rộng thêm quyền của Trưởng BKS và các KSV khác có thể đồng thời được bổ nhiệm làm Trưởng BKS, KSV của không quá bốn (04) DNNN mà không cần văn bản đồng ý của cơ quan đại diện chủ sở hữu.
3.9 Bổ sung quy định về trái phiếu doanh nghiệp và chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết
Ngoài thay đổi về khái niệm DNNN thì một thay đổi đáng chú ý khác của LDN chính là sự mở rộng các quy định về việc chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty không phải đại chúng. Nếu như LDN 2014 chỉ có một quy định về phát hành trái phiếu của CTCP thì đến LDN 2020 lại có rất nhiều quy định về việc phát hành trái phiếu. Theo đó, công ty TNHH và CTCP có thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp, riêng CTCP không đại chúng có thể phát hành “các loại chứng khoán khác”. Như vậy, có thể hiểu rằng công ty TNHH không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào khác ngoài trái phiếu.
Ngoài ra, LDN 2020 còn quy định CTCP còn được phép phát hành chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết (Non-Voting Depositary Receipt – “NVDR”). Đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có bất kỳ định nghĩa nào về NVDR. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng, NVDR là một loại chứng chỉ lưu ký đặc biệt, được phát hành bởi một tổ chức thứ ba là một công ty con của Sở giao dịch chứng khoán, tổ chức này sẽ chuyển giao cho nhà đầu tư tất cả quyền lợi tài chính gắn liền với cổ phiếu như cổ tức, quyền mua cổ phiếu mới, v.v. Theo LDN 2020, NVDR có lợi ích kinh tế và nghĩa vụ tương ứng với cổ phần phổ thông cơ sở, trừ quyền biểu quyết.
Từ những phân tích cơ bản trên, có thể thấy, LDN 2020 là một bước ngoặt, đánh dấu sự phát triển vượt bậc trong việc cụ thể hóa những quy định về doanh nghiệp của nước ta từng bước tương thích với thông lệ quốc tế và nguyên tắc về quản trị công ty của Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development – OECD); cơ chế và phương thức bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư ở Việt Nam có nhiều quy phạm tiến bộ, phần nào khắc phục được các bất cập về thủ tục, thời gian, chi phí cho kinh doanh; định hình cơ chế bảo vệ tương đối được sự cân bằng quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên/cổ đông trong doanh nghiệp; cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng lấy doanh nghiệp là động lực nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế với mục tiêu đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
[1] Khoản 2 và khoản 5 Điều 44 LDN 2014.
[2] Điều 12 LDN 2014.
[3] Khoản 1 Điều 34, khoản 4 Điều 46 LDN 2014.
[4] Điều 21, 22, và 23 LDN 2014.
[5] Khoản 2 Điều 44 LDN 2014.
[6] Điều 12 LDN 2014.
[7] Điểm d khoản 1 Điều 201 LDN 2014