I. LUẬT QUẢN LÝ THUẾ 2019
Lần đầu tiên quy định quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử
Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 (“Luật Quản lý thuế 2019”) được Quốc hội thông qua ngày 13/6/2019, thay thế Luật Quản lý thuế 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế 2012 (“Luật Quản lý thuế 2006”), có hiệu lực từ ngày 01/7/2020.
Theo đó, so với quy định tại Luật Quản lý thuế 2006, quyền lợi của người nộp thuế được đảm bảo và mở rộng hơn, chẳng hạn như (i) được nhận văn từ cơ quan chức năng khi tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; (ii) được biết thời hạn giải quyết hoàn thuế, số tiền thuế không được hoàn và căn cứ pháp lý đối với số tiền thuế không được hoàn; (iii) được tra cứu, xem, in toàn bộ chứng từ điện tử mà mình đã gửi đến cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý thuế; v.v.
Đối với thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế Thu nhập cá nhân (“TNCN”), Luật Quản lý thuế 2019 cho phép cá nhân được nộp hồ sơ quyết toán TNCN chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ tư kể từ ngày kết thúc năm dương lịch (kéo dài thêm 01 tháng so với Luật Quản lý thuế 2006), thay vì thời hạn là ngày thứ 90 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính đối với hồ sơ quyết toán năm như quy định trước đây.
Một trong những điểm mới đáng chú ý khác của Luật Quản lý thuế 2019 đó là việc đại lý thuế được cung cấp thêm dịch vụ kế toán cho doanh nghiệp siêu nhỏ, ngoài việc cung cấp dịch vụ đại lý thuế đang thực hiện. Chức năng này phù hợp với Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, giúp những doanh nghiệp siêu nhỏ tiết kiệm chi phí khi chỉ cần thuê một đơn vị để thực hiện cả hai chức năng tư vấn thuế và kế toán, thay vì phải thuê hai đơn vị độc lập.
Ngoài ra, đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, nhà cung cấp ở nước ngoài có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Đây chỉ là một trong những nội dung mang tính chất định hướng nhưng đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Trong thời gian tới, các văn bản hướng dẫn sẽ được ban hành nhằm quy định cụ thể về việc quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử. Với những quy định ngày càng hiện đại, phù hợp với thực tiễn và xu hướng phát triển kinh tế hiện nay, Luật Quản lý thuế 2019 đã góp phần xây dựng nên một hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện hơn, qua đó nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước.
II. LUẬT XUẤT CẢNH, NHẬP CẢNH CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM 2019
Hộ chiếu bao gồm hai loại: có gắn chíp điện tử và không gắn chíp điện tử
Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam số 49/2019/QH14 (“Luật Xuất cảnh, nhập cảnh”) được Quốc hội thông qua ngày 22/11/2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020.
Luật Xuất cảnh, nhập cảnh với những cải cách thiết thực về thủ tục hành chính sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quy trình xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam. Cụ thể:
Luật Xuất cảnh, nhập cảnh không đặt nặng vấn đề “nộp hồ sơ” khi đề nghị cấp hộ chiếu, mà cho phép công dân điền vào tờ khai theo mẫu hoặc khai qua mạng Internet nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân. Người dân có quyền lựa chọn nơi làm thủ tục cấp hộ chiếu tại bất kỳ cơ quan Công an địa phương nào mình thấy thuận tiện, thay vì phải liên hệ cơ quan công an địa phương nơi thường trú hoặc tạm trú dài hạn. Người dân đề nghị cấp hộ chiếu từ lần hai trở đi cũng sẽ được tạo điều kiện tối đa. Theo đó, người dân cũng được chọn nơi làm thủ tục, Cục Quản lý xuất nhập cảnh hoặc cơ quan Công an địa phương, và được nhận kết quả tại địa chỉ theo yêu cầu. Để thống nhất với quy định của Luật Căn cước công dân, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam quy định hộ chiếu bao gồm hai loại: có gắn chíp điện tử và không gắn chíp điện tử, và được cấp theo đề nghị của công dân Việc đưa vào sử dụng hộ chiếu có gắn chíp điện tử làm tăng tính xác thực cho hộ chiếu, chống nguy cơ làm giả, tạo thuận lợi cho công dân khi làm thủ tục xuất nhập cảnh tại cửa khẩu được nhanh chóng, chính xác do áp dụng kiểm soát hộ chiếu điện tử bằng cổng kiểm soát tự động (autogate).
Quy định mới cũng cho phép việc cấp giấy thông hành cho công dân ở nước ngoài về nước bằng việc cấp hộ chiếu phổ thông ngắn hạn (không quá 12 tháng) theo thủ tục rút gọn để thể hiện sự bảo hộ của Nhà nước đối với công dân trong mọi trường hợp, tránh sự phức tạp về mặt giấy tờ.
Ngoài ra, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh đã bổ sung quy định về việc khôi phục giá trị hộ chiếu bị mất được tìm thấy nếu người dân có yêu cầu, qua đó tạo thuận lợi cho người dân, nhất là các trường hợp hộ chiếu có thị thực của nước ngoài còn thời hạn.
Luật Xuất cảnh, nhập cảnh được ban hành là một bước tiến quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về xuất cảnh, nhập cảnh, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về nước của công dân. Nội dung của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh có nhiều điểm mới, cải tiến, đơn giản hóa so với quy định hiện hành.
III. NGHỊ QUYẾT 116/2020/QH14
Giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2020
Nghị quyết số 116/20202/QH14 về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác do Quốc hội ban hành ngày 19/6/2020, có hiệu lực ngày 03/8/2020 (“Nghị quyết 116”).
Theo đó, Nghị quyết 116 cho phép giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp (“TNDN”) phải nộp của năm 2020 đối với trường hợp doanh nghiệp có tổng doanh thu năm 2020 không quá 200 tỷ đồng tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật Thuế TNDN (gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm:
- Doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp;
- Tổ chức được thành lập theo Luật Hợp tác xã;
- Tổ chức khác được thành lập theo quy định có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập.
Nghị quyết 116 được áp dụng cho kỳ tính thuế năm 2020, các doanh nghiệp tự xác định số thuế được giảm khi tạm nộp thuế theo quý và quyết toán thuế TNDN năm 2020.
IV. NGHỊ ĐỊNH 58/2020/NĐ-CP
Doanh nghiệp được phép áp dụng mức đóng bảo hiểm xã hội thấp hơn mức đóng bình thường (0,3%) trong vòng 03 năm
Nghị định số 58/2020/NĐ-CP (“Nghị định 58”) do Chính phủ ban hành ngày 27/5/2020 quy định mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thay thế Nghị định 44/2017/NĐ-CP; bãi bỏ điểm b khoản 1 Điều 13 Nghị định 143/2018/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 15/7/2020.
Theo đó, mức đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) cho người lao động vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bình thường là 0,5% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH (áp dụng đối với cả công chức, viên chức lực lượng vũ trang thuộc các cơ quan Đảng, Nhà nước…). Trong trường hợp doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện theo quy định thì có để áp dụng mức đóng thấp hơn là 0,3% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH.
Doanh nghiệp được phép áp dụng mức đóng bảo hiểm xã hội thấp hơn mức đóng bình thường (0,3%) nếu, trong 03 năm liền trước năm đề xuất, thỏa mãn các điều kiện sau:
- Không bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội; và
- Káo cáo định kỳ tai nạn lao động, an toàn, vệ sinh lao động, chính xác, đầy đủ, đúng hạn và có tần suất tai nạn lao động giảm từ 15% trở lên so với trung bình của 03 năm liền trước năm đề xuất.
Mức đóng 0,3% được thực hiện trong vòng 36 tháng, kể từ ngày quyết định áp dụng mức đóng có hiệu lực. Nếu người sử dụng lao động vẫn có nhu cầu tiếp tục đóng BHXH bắt buộc ở mức 0,3% thì phải lập hồ sơ đề xuất theo quy định và nộp trước khi hết hạn 60 ngày.
V. NGHỊ ĐỊNH 81/2020/NĐ-CP
Các đợt phát hành trái phiếu phải cách nhau tối thiểu 06 tháng
Nghị định số 81/2020/NĐ-CP (“Nghị định 81”) của Chính phủ ngày 09/7/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP (“Nghị định 163”) ngày 04/12/2018 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2020.
Nghị định 81 được ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 163 đối với trường hợp phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) riêng lẻ theo hướng chặt chẽ, thận trọng hơn nhằm lành mạnh hóa, kiểm soát rủi ro thị trường.
Thứ nhất, giới hạn quy mô phát hành TPDN riêng lẻ phù hợp với quy mô vốn của doanh nghiệp. Theo đó, Nghị định 81 đã đưa thêm các quy định yêu cầu doanh nghiệp đáp ứng các tỷ lệ an toàn tài chính, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Đặc biệt là quy định khối lượng trái phiếu được phát hành của tổ chức phát hành phải đảm bảo dư nợ TPDN phát hành riêng lẻ tại thời điểm phát hành không vượt quá 03 lần vốn chủ sở hữu theo báo cáo tài chính quý gần nhất.
Thứ hai, hạn chế tình trạng DN chia nhỏ đợt phát hành TPDN riêng lẻ theo nhóm, đợt khác nhau để tăng huy động từ các nhà đầu tư cá nhân. Nghị định 81 đã giảm số lần phát hành trái phiếu của DN khi quy định các đợt phát hành phải cách nhau tối thiểu 06 tháng. Dù doanh nghiệp có thể tách nhiều lần phát hành trong mỗi đợt, nhưng quy định mới cũng yêu cầu mỗi đợt phát hành phải hoàn thành trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày công bố thông tin.
Thứ ba, xác định rõ mục đích sử dụng vốn trong hồ sơ phát hành TPDN riêng lẻ: Nghị định 81 đã bổ sung quy định doanh nghiệp phải nêu cụ thể mục đích phát hành trái phiếu trong hồ sơ phát hành. Đồng thời, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của thị trường, thời gian công bố thông tin trước đợt phát hành được rút ngắn từ tối thiểu 10 ngày làm việc xuống tối thiểu 03 ngày làm việc.
Thứ tư, tăng cường tính chuyên nghiệp và khả năng giám sát đối với phát hành trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp. Nghị định 81 quy định bắt buộc tổ chức phát hành ký hợp đồng tư vấn với tổ chức tư vấn về hồ sơ phát hành trái phiếu, trừ trường hợp doanh nghiệp phát hành là tổ chức được phép cung cấp dịch vụ tư vấn hồ sơ phát hành trái phiếu.
Nhìn chung, Nghị định 81 điều chỉnh các điều kiện phát hành TPDN theo hướng chặt chẽ hơn. Việc phát hành TPDN sẽ phải thực hiện tốt yêu cầu về minh bạch thông tin. Doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc kỹ lưỡng kế hoạch phát hành về cả về quy mô và thời gian.
VI. NGHỊ ĐỊNH 61/2020/NĐ-CP
Người lao động giao kết hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên sẽ thuộc trường hợp chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp
Nghị định số 61/2020/NĐ-CP (“Nghị định 61”) của Chính phủ ngày 29/5/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 28/2015/NĐ-CP (“Nghị định 28”) ngày 12/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/7/2020.
Theo quy định mới, khi người sử dụng lao động gặp khó khăn theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Luật Việc làm mà dẫn đến nguy cơ phải cắt giảm số lao động hiện có từ 30% hoặc từ 30 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng dưới 200 lao động; từ 50 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng từ 200 đến 1.000 lao động; hoặc từ 100 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng trên 1.000 lao động, người lao động sẽ được hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động.
Cũng tại quy định hướng dẫn Điều 47 nêu trên, Nghị định 61 đã bổ sung trường hợp thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc di dời hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất kinh doanh vào một trong những trường hợp bất khả kháng.
Một điểm mới quan trọng của Nghị định 61 là quy định sửa đổi, bổ sung đối với việc người lao động được xác định là có việc làm để chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp, cụ thể bao gồm các trường hợp sau:
- Đã giao kết hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên (quy định cũ tại Nghị định 28 là 03 tháng).
- Có quyết định tuyển dụng hoặc bổ nhiệm đối với những trường hợp không thuộc đối tượng giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc (quy định cũ tại Nghị định 28 không quy định trường hợp bổ nhiệm).
- Có giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh đối với trường hợp người lao động là chủ hộ kinh doanh hoặc có giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với trường hợp người lao động là chủ doanh nghiệp.
- Người lao động thông báo đã có việc làm cho trung tâm dịch vụ việc làm.
Như vậy, có thể thấy, ngoài việc đã sửa đổi, bổ sung các trường hợp được xác định là có việc làm để chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp, Nghị định 61 còn bổ sung thêm trường hợp người lao động trở thành chủ hộ kinh doanh, chủ doanh nghiệp cũng sẽ được xem là người lao động có việc làm để chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp.
VII. THÔNG TƯ 65/2020/TT-BTC
Bổ sung 05 trường hợp được miễn lệ phí môn bài
Thông tư số 65/2020/TT-BTC (“Thông tư 65”) ngày 09/7/2020 của Bộ Tài chính sửa đổi Thông tư số 302/2016/TT-BTC (“Thông tư 302″) ngày 04/10/2016 hướng dẫn về lệ phí môn bài, có hiệu lực từ ngày 23/8/2020.
Thông tư 65 đã bổ sung thêm 05 trường hợp được miễn lệ phí môn bài (LPMB), cụ thể:
Một là, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (bao gồm cả chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh) hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp theo quy định của pháp luật về hợp tác xã nông nghiệp, bao gồm cả trường hợp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp.
Hai là, quỹ tín dụng nhân dân; chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và của doanh nghiệp tư nhân kinh doanh tại địa bàn miền núi.
Ba là, miễn LPMB trong năm đầu thành lập hoặc ra hoạt động sản xuất, kinh doanh (từ ngày 01/01 đến ngày 31/12) đối với: tổ chức thành lập mới (được cấp mã số thuế mới, mã số doanh nghiệp mới); hộ gia đình, cá nhân, nhóm cá nhân lần đầu ra hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Bốn là, doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh (có hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục ít nhất là 01 năm) được miễn LPMB trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.
Năm là, cơ sở giáo dục phổ thông công lập và cơ sở giáo dục mầm non công lập.
Có thể thấy, Thông tư 65 đã phần nào giảm bớt gánh nặng tài chính cho các bộ phận có quy mô vừa và nhỏ, mới tham gia vào hoạt động đầu tư – kinh doanh. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khi mà tình hình kinh tế chưa thực sự khả quan và đang trong quá trình hồi phục.
VIII. THÔNG TƯ 18/2020/TT-BCT
Một số hướng dẫn về phát triển dự án điện mặt trời và hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng
Ngày 17/7/2020, Bộ Công thương ban hành Thông tư số 18/2020/TT-BCT (“Thông tư 18”) quy định về phát triển dự án và Hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt trời, trong đó hướng dẫn một số nội dung của Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg (“Quyết định 13“) ngày 06/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 31/8/2020.
Thông tư 18 hướng dẫn xác định ngày vận hành thương mại (COD) để áp dụng Biểu giá mua bán điện mặt trời lần 2 (FIT2), trong đó COD của dự án chỉ đạt được khi: (i) hoàn thành các thử nghiệm ban đầu đối với toàn bộ hoặc một phần công trình; (ii) đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động điện lực trong lĩnh vực phát điện; và (iii) Bên bán điện và Bên mua điện chốt chỉ số công tơ để bắt đầu thanh toán.
Đối với hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho dự án điện mặt trời nối lưới ban hành kèm theo Thông tư 18 cũng bổ sung một số nội dung đáng chú ý so với mẫu hợp đồng trước đây, bao gồm quy định kỹ lưỡng về kiểm tra đảm bảo tính chính xác của hệ thống đo đếm, ghi nhận cách giải quyết khi hệ thống đo đếm gặp sự cố, và thu hẹp thời hạn bên bán điện phải xác nhận lại chính thức việc thay đổi ngày vận hành thương mại là từ 01 đến 03 tháng (trước đây là 06 đến 12 tháng) trước ngày dự kiến vận hành thương mại.
Ngoài ra, Thông tư 18 cũng quy định một số nội dung nhằm khuyến khích phát triển hệ thống điện mặt trời mái nhà như miễn trừ giấy phép hoạt động điện lực cho Bên bán điện.
Nhìn chung, Thông tư 18 ghi nhận những hướng dẫn cụ thể để khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng nhằm hướng đến tạo ra nguồn năng lượng xanh và phát triển bền vững, ghi nhận việc thương mại hóa các dự án điện mặt trời mái nhà để thu hút đầu tư. Tuy nhiên, quy định mới hiện nay vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư trong thị trường điện cạnh tranh khi không hướng dẫn các tiêu chí phân biệt dự án điện mặt trời nối lưới và dự án điện mặt trời mái nhà để áp dụng giá điện FIT2, cũng như vẫn giữ nguyên giới hạn công suất của hệ thống điện mặt trời mái nhà chỉ ở mức là 01MW.